Ngay sau khi chia tách, thành lập tỉnh Lai Châu năm 2004, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh đã xác định tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, các chương trình mục tiêu quốc gia liên quan tới vấn đề trên. Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 2-7-2004, của Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh, “Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm giai đoạn 2004 - 2010” xác định quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm đối với tỉnh Lai Châu là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa to lớn cả về chính trị, kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh. Đây là vấn đề lớn, phức tạp, lâu dài. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI xác định, đẩy mạnh hơn nữa công tác xóa đói, giảm nghèo, xác định đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong suốt nhiệm kỳ.
Ngay sau khi chia tách, thành lập tỉnh Lai Châu năm 2004, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh đã xác định tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, các chương trình mục tiêu quốc gia liên quan tới vấn đề trên. Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 2-7-2004, của Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh, “Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm giai đoạn 2004 - 2010” xác định quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm đối với tỉnh Lai Châu là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa to lớn cả về chính trị, kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh. Đây là vấn đề lớn, phức tạp, lâu dài. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI xác định, đẩy mạnh hơn nữa công tác xóa đói, giảm nghèo, xác định đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong suốt nhiệm kỳ.
CT-NTM hỗ trợ hơn 9,000 xã trên khắp 63 tỉnh thành của Việt Nam để nâng cấp dịch vụ và hạ tầng ở cộng đồng, nâng cao thu nhập và năng suất, đồng thời giảm chênh lệch kinh tế xã hội giữa các khu vực nông thôn và thành thị ở Việt Nam.
Chương trình có 11 nhóm hoạt động chính với 19 chỉ tiêu nhằm đo lường thay đổi liên quan đến nghèo đói, giáo dục, y tế, giao thông, cấp nước, thủy lợi, sinh kế, sản xuất nông nghiệp, văn hóa, năng lượng, các vấn đề môi trường, truyền thông và an ninh. Các xã sẽ đánh giá các nhu cầu ưu tiên theo các chỉ tiêu này và lập kế hoạch để đáp ứng được các tiêu chí đó. Về nguyên tắc, chương trình sẽ hỗ trợ bằng cách phân bổ nguồn kinh phí cần thiết để đáp ứng những nhu cầu ở từng xã.
Kể từ khi khởi động, chương trình đã thu hút được tổng cộng 2,967,057 tỷ đồng (tương đương khoảng 13.48 tỷ đô la Mỹ/năm). Nguồn lực cho phát triển nông thôn mới được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau.
Trong giai đoạn đầu (2011-2015), nguồn vốn và việc thực hiện ở nhiều xã chủ yếu tập trung vào mục tiêu về cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, chương trình đã đạt được hiệu quả trong việc tăng cường lập kế hoạch cấp địa phương, đặc biệt là những nơi có các dự án do các nhà tài trợ hỗ trợ thực hiện. Tuy nhiên, có những hạn chế trong quản lý và điều hành. Trong giai đoạn hai (2016 – 2020), đã có sự định hướng lại việc sử dụng ngân sách để cải thiện những hạn chế đó, cùng với việc nâng cao thu nhập, năng suất, giá trị gia tăng và tạo dựng doanh nghiệp.
Việc thực hiện CT-NTM được phân cấp, các quyết định chi cho những hạng mục nào cần thiết được thực hiện ở cấp tỉnh, huyện và xã. Số liệu ngân sách công cho thấy thực tế như vậy, chi đầu tư (bao gồm chi cho tài sản, đất đai, cổ phiếu hoặc tài sản vô hình) được thực hiện chủ yếu ở cấp địa phương. Chi đầu tư chủ yếu tập trung vào chi cho các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu như giao thông nông thôn, trường học, nhà văn hóa, hệ thống thủy lợi và nước sạch. Ngân sách trung ương tập trung vào chi thường xuyên, dành cho hỗ trợ sản xuất và chuỗi giá trị, đào tạo nghề, nâng cao năng lực, truyền thông, giám sát và đánh giá, bảo trì, giáo dục và vệ sinh môi trường.
Chương trình Nông thôn mới trong thập kỷ đầu tiên
Một xã nếu đạt tất cả 19 tiêu chí nông thôn mới được công nhận là xã đạt chuẩn “Nông thôn mới”. Huyện/tỉnh nếu có tất cả các xã/huyện đạt chuẩn “Nông thôn mới” được công nhận là huyện/tỉnh đạt chuẩn “Nông thôn mới”.
Đến 2020, gần 61% số xã (5,012 xã) đã đạt đủ tất cả 19 tiêu chí, cao hơn mục tiêu kế hoạch là 50%.
Tại Việt Nam, phát triển nông thôn luôn song hành với phát triển nông nghiệp. Bản thân nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong chính sách của Việt Nam, là trụ cột của nền kinh tế đất nước. Vì vậy, phát triển nông thôn luôn là trọng tâm hàng đầu của chính phủ Việt Nam.
Chính sách nông nghiệp của Việt Nam thời kỳ đầu tập trung vào xóa đói giảm nghèo, chuyển dần từ nông nghiệp tự cung tự cấp sang nông nghiệp thương mại hóa trong giai đoạn 1986-2000. Kể từ đó, giai đoạn đa dạng hóa nông nghiệp bắt đầu (2000-2008), đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Hiện nay, hướng tiếp cận của chính phủ tập trung vào phát triển nông nghiệp bền vững và có khả năng chống chịu (từ 2008-nay). Chính phủ hướng đến một nền nông nghiệp bền vững, thân thiện môi trường và có giá trị gia tăng cao, có thể tạo ra nhiều giá trị kinh tế hơn với chi phí môi trường và con người thấp hơn. Các chiến lược chính do Ban chấp hành trung ương Đảng đưa ra khẳng định nông nghiệp, nông dân và nông thôn tiếp tục là các hợp phần không thể tách rời trong kế hoạch, mặc dù được thực hiện theo hướng bền vững.
Vào năm 2010, Chính phủ đã xây dựng chiến lược phát triển nông thôn, được thực hiện thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới (CT-NTM) Quá trình triển khai được chia thành các giai đoạn năm năm, hiện tại chương trình đang bước vào giai đoạn thứ ba. CT-NTM được chính phủ xác định là một nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên và liên tục, có điểm khởi đầu nhưng không có điểm kết thúc.
Mặc dù có những thành tựu đáng ghi nhận ở cấp quốc gia, nhưng mức độ hưởng lợi từ CT-NTM vẫn còn khác biệt ở cấp địa phương, đặc biệt là ở các khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng miền Trung – các vùng đất truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ số xã nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số đạt chuẩn nông thôn mới thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước (44,8% so với 55,6%). Các xã này bình quân cũng đạt được số tiêu chí nông thôn mới thấp hơn so với mức chung của cả nước, là 14,87/19 so với 16,38/19. Ngay cả đối với những xã đã đạt chuẩn, các thành tựu không được bền vững, bởi nhiều cơ sở hạ tầng đã xuống cấp. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo bình quân ở các xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã giảm từ 3 – 4%/năm.
Các điều kiện kinh tế xã hội từ trước, như hệ thống nước sạch và vệ sinh kém, thu nhập bình quân đầu người thấp, có nghĩa là cần phải vượt qua khoảng cách lớn hơn để đáp ứng các tiêu chí của CT-NTM. Những trở ngại về địa lý, bao gồm khoảng cách xa xôi, địa hình phức tạp và chia cắt, cũng như dân cư thưa thớt phân tán, dẫn đến chi phí đầu tư cho các dự án cơ sở hạ tầng ở khu vực miền núi thường rất cao, cao hơn gấp 2 đến 3 lần so với các khu vực đồng bằng. Ngoài ra, đầu tư thúc đẩy sự tham gia tích cực của cộng đồng và nâng cao năng lực địa phương còn hạn chế. Chi tiêu công cũng không ưu tiên cho các xã có hạn chế về khả năng huy động nguồn lực trong khi cần đầu tư lớn. Thêm vào đó, trọng tâm là xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng mới, nhưng ngân sách cho vận hành và bảo trì lại không đủ. Một hậu quả là ô nhiễm nguồn nước ngày càng gia tăng, do hầu hết chất thải rắn và nước thải (công nghiệp và hộ gia đình) chưa được thu gom và xử lý triệt để.
Hơn nữa, các chỉ số cấp quốc gia – chỉ tập trung vào các thước đo kinh tế – không tính đến nhu cầu cấp địa phương. Chính phủ đưa ra một chuẩn chung xây dựng diện mạo nông thôn “sạch, đẹp, hiện đại” với đường nhựa hoặc đường bê tông, nhà gạch, bất kể đó là miền núi hay miền biển. Tuy nhiên, chuẩn này không phù hợp với tất cả các làng bản nông thôn, nơi kiến trúc truyền thống hòa hợp với điều kiện tự nhiên. Bên cạnh đó, CT-NTM xây dựng theo ưu tiên “điện – đường – trường – trạm”, bỏ qua cấu trúc và không gian làng xã rất quan trọng về yếu tố văn hóa. Đình, chùa, đền, miếu mạo, không còn là điểm nhấn của làng quê, vì thế mà đứt gãy những giá trị văn hóa. Điều này có nghĩa là thiếu sự đầu tư của cộng đồng vào kiến trúc và văn hóa truyền thống. Có thể dễ dàng nhận ra thực tế này, mật độ xây dựng ngày càng gia tăng, có những công trình xâm phạm trực tiếp đến các di tích, di sản.
Bình đẳng giới đã được đưa vào CT-NTM trong một chỉ số thành phần (chỉ số 18.6). Tuy nhiên, vấn đề giới không được xem xét trong bất kỳ tiêu chí nông thôn mới nào còn lại. Điều này có nghĩa là các hoạt động của CT-NTM không phản ánh tiếng nói và nhu cầu của phụ nữ.