Nhất Tiếu Giang Hồ Tiếng Việt

Nhất Tiếu Giang Hồ Tiếng Việt

Giang hồ Chợ Mới (tiếng Anh: New Market's gypsies) là nhan đề loạt Chương trình chiếu mạng phim ca nhạc hài khai thác đề tài dân giang hồ, xã hội đen của đạo diễn Tô Gia Tuấn, phát hành từ 2017 tới nay.

Giang hồ Chợ Mới (tiếng Anh: New Market's gypsies) là nhan đề loạt Chương trình chiếu mạng phim ca nhạc hài khai thác đề tài dân giang hồ, xã hội đen của đạo diễn Tô Gia Tuấn, phát hành từ 2017 tới nay.

Tuyển cô tạp vụ rửa chén cho quán hủ tiếu tại tiền giang bao ăn ở

Cần tuyển 1 chị tạp vụ, lặt rau, rửa chén, phụ việc trong bếp, yêu cầu hiền, chịu khó , có phòng cho nhân viên ở lại bao ăn, trưa nghỉ trưa 2-3 tiếng, làm tốt tăng lương, thưởng trách nhiệm lễ têt đầy đủ

{{Model.AvgRating >= 10 ? "10" : (Model.AvgRating|number:1)}}

{{Model.CreatedDate|dateTimeJson}}

Dòng chảy của Trường Giang qua Trung Quốc

Trường Giang (giản thể: 长江; phồn thể: 長江; ngheⓘ pinyin: Cháng Jiāng; Wade-Giles: Ch'ang Chiang) ở Trung Quốc là con sông dài nhất châu Á và đứng thứ ba trên thế giới sau sông Nin ở Châu Phi, sông Amazon ở Nam Mỹ. Trong tiếng Việt, tên gọi sông Dương Tử (扬子江 ngheⓘ, Yángzǐ Jiāng hay Yangtze Kiang; Hán-Việt: Dương Tử Giang) chỉ sông này, dùng theo phiên âm của các ngôn ngữ phương Tây như Anh, Pháp..., là tên cũ của đoạn hạ lưu Trường Giang đổ ra biển, còn ở Trung Quốc hiện nay chỉ dùng tên gọi Trường Giang. Trường có nghĩa là quãng đường xa và dài, giang có nghĩa là dòng nước uốn lượn uyển chuyển trải dài rộng lớn, nên ghép liền mạch lại Trường Giang ngụ ý muốn nói tới dòng nước trải dài và uyển chuyển uốn lượn.

Trường Giang dài khoảng 6.385 km, bắt nguồn từ phía tây Trung Quốc (Thanh Hải) và chảy về phía đông đổ ra Biển Hoa Đông, Trung Quốc. Thông thường sông này được coi như điểm phân chia giữa hai miền Hoa Bắc và Hoa Nam Trung Quốc, mặc dù sông Hoài (淮河) cũng đôi khi được coi như vậy.

Cùng với Hoàng Hà, Trường Giang là sông quan trọng nhất trong lịch sử, văn hóa, và kinh tế của Trung Quốc. Đồng bằng châu thổ Trường Giang màu mỡ tạo ra 20% GDP của Trung Quốc. Trường Giang chảy qua nhiều hệ sinh thái đa dạng và bản thân nó cũng là nơi sinh sống cho nhiều loài đặc hữu và loài nguy cấp như Cá sấu Trung Quốc và Cá tầm Dương Tử. Qua hàng ngàn năm, người dân đã sử dụng con sông để lấy nước, tưới tiêu, ngọt hóa, vận tải, công nghiệp, ranh giới và chiến tranh. Đập Tam Hiệp trên Trường Giang là công trình thủy điện lớn nhất thế giới.[1][2]

Trong những năm gần đây, con sông phải chịu đựng những chất ô nhiễm từ công nghiệp, nông nghiệp, và mất nhiều vùng đất ngập nước và hồ, làm gia tăng yếu tố lũ theo mùa. Một số đoạn sông hiện đang được bảo vệ làm các khu bảo tồn thiên nhiên. Một đoạn sông Trường Giang chảy qua các hẻm núi sâu, hẹp ở phía đông Vân Nam được công nhận là một phần của khu bảo tồn Sông Vân Nam, một di sản thế giới của UNESCO.

Tên gọi Dương Tử nguyên thủy là tên gọi của người dân khu vực hạ lưu sông này để chỉ khúc sông chảy qua đó. Vì được phổ biến qua những nhà nhà truyền giáo châu Âu nên tên "Dương Tử" đã được dùng trong tiếng Anh để chỉ cả con sông (Yangtse, Yangtze Kiang). Bài này sẽ dùng tên Trường Giang để chỉ con sông này. Con sông này đôi khi còn được gọi là Thủy lộ Vàng (Golden Waterway).

Con sông này mang nhiều tên khác nhau tùy theo khu vực mà nó chảy qua. Ở cao nguyên Thanh Tạng, Tây Tạng, nó được gọi là Vbri-chu (འབྲི་ཆུ་ trong tiếng Tây Tạng, nghĩa là "dòng sông bò yak cái"). Ở thượng nguồn, thuộc tỉnh Thanh Hải sông được gọi là Đà Đà hà (沱沱河), Đương Khúc hà (當曲河), Thông Thiên hà (通天河). Đoạn từ Thanh Hải chảy đến Nghi Tân tỉnh Tứ Xuyên được gọi là Kim Sa giang (金沙江). Đoạn từ Nghi Tân đến Nghi Xương được gọi là Xuyên giang (川江). Đoạn từ Nghi Đô tỉnh Hồ Bắc đến Nhạc Dương tỉnh Hồ Nam được gọi là Kinh giang (荊江) (xưa là đất Kinh Châu). Cuối cùng, khi chảy qua khu vực Dương Châu tỉnh Giang Tô nó từng được gọi là Dương Tử giang (揚子江). Các học giả cho rằng chữ "giang" 江 (sự kết hợp của bộ thủy 氵 và âm 工 mà nay đọc là gōng, nhưng đọc là *kˤoŋ trong tiếng Hán Cổ[3]) có nguồn gốc từ một ngôn ngữ nào đó trong ngữ hệ Nam Á (cùng gốc với ကြုၚ် trong tiếng Môn và sông trong tiếng Việt).

Con sông bắt nguồn từ một số nhánh ở thượng lưu thuộc địa phận các tỉnh Thanh Hải, Tứ Xuyên, Trùng Khánh, Vân Nam, Quý Châu, tuy nhiên hai trong số đó được xem là đầu nguồn của nó là nhánh Tuotuo và Dan Qu. Chính phủ Trung Quốc thì cho rằng nguồn nhánh Tuotuo bắt đầu từ chân của băng hà nằm ở phía tây của núi Geladandong ở Dãy núi Tanggula rìa phía đông của cao nguyên Thanh Tạng. Tuy nhiên theo các nguồn địa lý (như sông dài nhất tính từ biển) thì nguồn của nó nằm ở vùng đất ngập nước ở tọa độ 32°36′14″B 94°30′44″Đ / 32,60389°B 94,51222°Đ / 32.60389; 94.51222 và độ cao 5170 m trên mực nước biển, chính là đầu nguồn của nhánh Dan Qu[4]. Các nhánh này hợp lưu và sau đó chảy về phía đông qua Qinghai, rồi vòng về phía nam tạo thành một thung lũng sâu ở ranh giới của Tứ Xuyên và Tây Tạng rồi mới đến Vân Nam. Trong phạm vi thung lũng này, cao độ của sông giảm mạnh từ trên 5000m xuống dưới 1000m. Lưu vực trung lưu của sông thuộc các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây. Lưu vực hạ lưu thuộc các tỉnh An Huy, Chiết Giang, Thượng Hải, Giang Tô.

Sông được hình thành từ Eocene, khoảng 45 triệu năm trước[5] nhưng một số người không chấp nhận quan điểm này.[6]

Sông Trường Giang góp phần quan trọng trong việc hình thành các nguồn gốc văn hóa nông nghiệp miền nam Trung Quốc của người Bách Việt. Hoạt động của cộng đồng người Bách Việt đã được phát hiện ở khu vực Tam Hiệp cách đây 27.000 năm.[7]

Trường Giang là con sông lớn nhất của Trung Quốc về chiều dài, lượng nước chảy, diện tích, lưu vực và ảnh hưởng kinh tế. Trường Giang bắt nguồn từ vùng cao nguyên tỉnh Thanh Hải, chảy về hướng nam, dọc theo ranh giới cao nguyên Tây Tạng vào địa phận tỉnh Vân Nam, sau đó rẽ sang hướng đông bắc vào tỉnh Tứ Xuyên, qua các tỉnh Hồ Bắc, Giang Tây, An Huy và Giang Tô rồi đổ ra biển ở giữa Hoàng Hải và Nam Hải.

Vào tháng 6 năm 2003 công trình đập Tam Hiệp đã nối liền hai bờ sông, làm ngập lụt thị trấn Phụng Tiết, là khu dân cư đầu tiên trong các khu vực dân cư chịu ảnh hưởng của dự án kiểm soát lụt lội và phát điện này. Dự án này là lớn nhất so với các dự án thủy lợi khác trên thế giới. Nó sẽ giải phóng người dân hai bên bờ con sông này khỏi cảnh ngập lụt là mối đe dọa thường xuyên trong quá khứ cũng như cung cấp cho họ điện năng và vận tải đường thủy - mặc dù phải chấp nhận hy sinh vĩnh viễn một số thành phố và tạo ra sự thay đổi lớn trong hệ sinh thái khu vực.

Con sông này cũng là nơi sinh sống duy nhất của một số động vật trong danh sách báo động nguy hiểm như cá heo sông Trung Quốc (năm 1998 chỉ còn khoảng bảy con) hay cá kiếm Trung Quốc (cá tầm thìa).

Trường Giang là đầu mối giao thông quan trọng của Trung Quốc. Nó nối liền Trung Hoa lục địa với bờ biển. Việc vận chuyển trên sông rất đa dạng từ vận chuyển than, hàng hóa tiêu dùng và hành khách. Các chuyến tàu thủy trên sông trong vài ngày sẽ đưa ta qua các khu vực có phong cảnh đẹp như khu vực Tam Hiệp ngày càng trở nên phổ thông hơn làm cho du lịch Trung Quốc phát triển.

Những trận ngập lụt dọc theo hai bờ sông đã từng là vấn đề lớn, lần gần đây nhất là năm 1998, nhưng gây thảm họa lớn hơn cả là năm 1954. Trận ngập lụt sông Dương Tử này đã giết chết khoảng 30.000 người. Những trận ngập lụt nặng nề nhất diễn ra năm 1911 giết chết khoảng 100.000 người, năm 1931 (145.000 người chết) và năm 1935 (142.000 người chết).

Sông Dương Tử có hơn 700 chi lưu. Các chi lưu chính được liệt kê bên dưới theo thứ tự từ thượng nguồn xuống và nơi mà nó hợp lưu với sông chính:

Sông Trường Giang là nơi sinh sống của một số loài cực kỳ nguy cấp như cá sấu Trung Quốc, cá heo không vây, cá kiếm Trung Quốc, và Cá heo sông Dương Tử. Đây là nơi duy nhất ngoài Hoa Kỳ có loài cá sấu bản địa và paddlefish. Cá heo không vây theo ước tính năm 2010 chỉ còn 1000 cá thể, sự suy giảm này do việc sử dụng tuyến sông phục vụ thương mại cùng với du lịch và ô nhiễm môi trường.

Bình Giang là một huyện nằm ở phía tây nam tỉnh Hải Dương, Việt Nam.

Huyện Bình Giang nằm ở phía tây của tỉnh Hải Dương, có quốc lộ 5, quốc lộ 38, quốc lộ 39B chạy qua, cách thành phố Hải Dương 20 km về phía tây nam. Có diện tích tự nhiên là 104,7 km², dân số năm 2018 là 145.535 người, 4,8% dân số theo đạo Thiên Chúa, có vị trí địa lý:

Bốn mặt huyện Bình Giang đều có sông: sông Kẻ Sặt ở phía Bắc, sông Đình Hào ở phía Đông, sông Cửu An ở phía Tây, sông Cầu Lâm, Cầu Cốc ở phía Nam. Trong đó sông Sặt bắt nguồn từ sông Hồng, qua cống Xuân Quan, qua cầu Lực Điền, cầu của đường 39A, nối quốc lộ 5A với thành phố Hưng Yên, tiếp cận với huyện Bình Giang tại vị trí sát làng Tranh Ngoài, xã Thúc Kháng. Đến đây sông có nhánh chạy dọc theo phía Tây huyện, gọi là sông Cửu An; một nhánh chạy dọc phía Bắc huyện gọi là sông Kẻ Sặt, thông với sông Thái Bình, qua Âu Thuyền, thành phố Hải Dương.

Đây cũng là địa phương có đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng đi qua.

Huyện Bình Giang có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Kẻ Sặt (huyện lỵ) và 14 xã: Bình Xuyên, Cổ Bì, Hồng Khê, Hùng Thắng, Long Xuyên, Nhân Quyền, Tân Hồng, Tân Việt, Thái Dương, Thái Hòa, Thái Minh, Thúc Kháng, Vĩnh Hồng, Vĩnh Hưng.

Bình Giang là vùng đất có từ lâu đời thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, do phù sa của hệ thống sông Thái Bình và sông Hồng bồi đắp. Thời nhà Đường đô hộ nước ta (từ năm 618 – 907), Bình Giang có tên là huyện Đường An (nghĩa là vùng đất bình yên) thuộc Giao Châu – phủ An Nam.

Đến cuối thế kỉ XVI, địa bàn huyện Bình Giang thuộc phủ Hồng Châu.

Năm Cảnh Hưng thứ 2 (1742), địa bàn huyện Bình Giang thuộc phủ Thượng Hồng.

Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), vì kiêng tên húy nhà vua nên đổi tên phủ Thượng Hồng thành phủ Bình Giang.

Năm Đồng Khánh thứ 1 (1885), đổi huyện Đường An thành huyện Năng An.

Năm 1898, sau khi hoàn thành công cuộc xâm lược nước ta, thực dân Pháp bỏ cấp phủ, tri phủ đóng ở huyện nào thì trực tiếp cai trị huyện ấy, huyện Năng An đổi thành huyện Bình Giang. Huyện lỵ huyện Bình Giang ban đầu đóng ở thôn Ninh Bình thuộc xã Hoạch Trạch (xã Thái Học ngày nay), đến năm 1925 huyện lỵ dời lên thị trấn Kẻ Sặt ngày nay, đến năm 1962 lại dời về như cũ.

Ngày 1 tháng 3 năm 1977, hai huyện Bình Giang và Cẩm Giàng hợp nhất thành huyện Cẩm Bình, huyện lỵ đặt tại xã Lai Cách thuộc huyện Cẩm Giàng.

Ngày 12 tháng 2 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 11/NĐ-CP về việc tái lập huyện Bình Giang sau 20 năm sáp nhập với huyện Cẩm Giàng thành huyện Cẩm Bình, huyện lỵ đặt tại thị trấn Kẻ Sặt như ngày nay.

Khi mới tách ra, huyện Bình Giang có thị trấn Kẻ Sặt và 17 xã: Bình Minh, Bình Xuyên, Cổ Bì, Hồng Khê, Hùng Thắng, Hưng Thịnh, Long Xuyên, Nhân Quyền, Tân Hồng, Tân Việt, Thái Dương, Thái Học, Thái Hòa, Thúc Kháng, Tráng Liệt, Vĩnh Hồng, Vĩnh Tuy.

Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 788/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hải Dương giai đoạn 2019–2021 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2019)[2]. Theo đó:

Ngày 24 tháng 10 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1250/NQ-UBTVQH15[3] về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Hải Dương giai đoạn 2023 – 2025 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2024). Theo đó, thành lập xã Thái Minh trên cơ sở xã Thái Học và xã Bình Minh.

Huyện Bình Giang có 1 thị trấn và 14 xã như hiện nay.

1. Đền bà Chúa Me thờ Thái phi Vũ Thị Ngọc Nguyên (chữ Hán: 太妃武氏玉源, 21 tháng 3 năm 1689 - 8 tháng 11 năm 1751), còn có tên là Vũ Thị Ngọc Quyến hay Vũ Thị Ngọc Mị, tục gọi là Bà chúa Me, là vương phi của chúa chúa Trịnh Cương, sinh mẫu của hai vị chúa Trịnh Giang và Trịnh Doanh trong lịch sử Việt Nam.

2. Đình làng Tranh Tại Xã Thúc Kháng

Đình hai làng Tranh thờ chung một Thành hoàng, thần phả còn đã dịch ra chữ quốc ngữ. Tóm tắt như sau: Xưa có Lý Khôi người đất Kinh Bắc, lấy bà Nguyễn Thị Hạnh người làng Tranh. 50 tuổi bà mới sinh một bọc ba con trai, đều đặt tên là Long, song chỉ nuôi được con thứ 3 là Long Công Tam. Bà Hạnh mất, Lý Khôi đem con là Long Công Tam về làng Tranh dạy học, rồi tục huyền với bà Phạm Thị Hằng, sinh một con trai đặt tên là Khang Công. Lớn lên hai anh em Long Công và Khang Công học văn, luyện võ đều giỏi. Cha mẹ mất, nước lại có loạn 12 sứ quân (966-968), hai anh em tổ chức hương binh, giữ cho làng làm ăn yên ổn. Đinh Bộ Lĩnh triệu hai ông đến gặp và phong cho làm tướng đi dẹp sứ quân Kiều Công Hãn và Ngô Nhật Khánh. Hai ông hoàn thành nhiệm vụ, vua Đinh phong cho hai ông làm Thành hoàng làng Tranh. Làng Tranh thờ cả hai anh Long Công Tam mất sớm nữa, nên làng Tranh thờ 4 Thành hoàng. Hai anh Long Công Tam là Long Công Nhất và Long Công Nhị.

Bình Giang là một huyện chủ yếu là công nghiệp, đang phát triển mạnh dịch vụ, thương mại.

Năm 2006 tổng GDP huyện đạt 1.200 tỷ đồng, trong đó: nông nghiệp (8,06%), công nghiệp (60,88%), tiểu thủ công nghiệp, xây dựng; thương mại dịch vụ (31,06%).

Tại xã Hồng Khê, phía nam của huyện Bình Giang có làng cổ Trinh Nữ, là một trong những ngôi làng cổ cùng hình thành với làng Mộ Trạch. (Theo "Làng Cổ Việt" của Vũ Khiêu???) Theo sử sách ghi lại làng có 36 người đỗ tiến sĩ.

Bình Giang có nhiều làng nghề truyền thống xưa và làng nghề mới như: