Thu Nhập Của Người Việt Nam 2023

Thu Nhập Của Người Việt Nam 2023

Khi đã quá nhẵn mặt với những tên tuổi người mẫu trong nước thì việc lựa chọn các gương mặt mẫu tây, mắt xanh, da trắng, tóc vàng lại trở thành một “cơn gió lạ” tạo thêm nhiều điểm thú vị, hấp dẫn, mới mẻ cho làng thời trang Việt Nam. Loạt bài: Người mẫu Tây ở Việt Nam sẽ giúp bạn hiểu thêm về họ.

Khi đã quá nhẵn mặt với những tên tuổi người mẫu trong nước thì việc lựa chọn các gương mặt mẫu tây, mắt xanh, da trắng, tóc vàng lại trở thành một “cơn gió lạ” tạo thêm nhiều điểm thú vị, hấp dẫn, mới mẻ cho làng thời trang Việt Nam. Loạt bài: Người mẫu Tây ở Việt Nam sẽ giúp bạn hiểu thêm về họ.

Một số chính sách chưa "bao phủ", thiếu bền vững

Bên cạnh những kết quả đạt được, Thứ trưởng Nguyễn Văn Hồi cho rằng, một số chính sách ASXH chưa bao phủ hết các nhóm đối tượng, thiếu bền vững, thực hiện thiếu đồng bộ, chưa đồng đều giữa các địa phương, chênh lệch về mức sống, hưởng thụ văn hóa, tinh thần giữa các vùng, miền, nhóm đối tượng... còn lớn.

Mức trợ cấp xã hội còn thấp, chất lượng an sinh xã hội có mặt còn hạn chế, đời sống của một bộ phận dân cư còn nhiều khó khăn. Hệ thống quản lý còn bất cập, trình độ quản lý chưa cao, vẫn còn hiện tượng lạm dụng, trục lợi chính sách.

Ông Hồi chia sẻ: “Thời gian tới, Việt Nam cần có kế hoạch tổng thể nghiên cứu, tổng kết, đánh giá các chính sách ASXH hiện hành và nghiên cứu xây dựng, đề xuất với T.Ư một nghị quyết mới về chính sách xã hội cho giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 là hết sức cần thiết, nhằm quản lý và phát triển xã hội phù hợp với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một nước đang phát triển có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và là nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Trong đó, xác định đầu tư cho con người, cho chính sách xã hội là đầu tư cho phát triển nhằm đạt được mục tiêu phát triển nhanh và bền vững".

Để Việt Nam tiến tới tầm nhìn an sinh xã hội cho toàn dân, bà Ingrid Christensen, Giám đốc ILO Việt Nam, nhấn mạnh Việt Nam phải tiếp tục dành những nỗ lực và nguồn lực đáng kể để tăng cường hệ thống an sinh xã hội trên nhiều chiều cạnh khác nhau.

Theo các chuyên gia ILO, việc cải cách các chính sách ASXH cần được thiết kế và thực hiện dựa trên một loạt các nguyên tắc như: phối hợp và liên kết nhiều hơn giữa các chính sách và can thiệp khác nhau; hệ thống ASXH nhạy cảm hơn về giới và phản ứng với sốc; đảm bảo ASXH, không bỏ lại ai phía sau; thúc đẩy sự tham gia của nhiều bên liên quan trong quá trình hoạch định chính sách ASXH...

Năm 2023, thu nhập bình quân của lao động Việt Nam đạt 7,1 triệu đồng mỗi tháng, tăng 459.000 đồng (6,9%) so với cùng kỳ 2022.

Báo cáo của Tổng cục Thống kê cho thấy thu nhập bình quân của lao động nam đạt 8,1 triệu đồng và nữ 6 triệu đồng. Riêng quý IV/2023, đời sống lao động cải thiện khi thu nhập bình quân đạt 7,3 triệu đồng mỗi tháng, tăng 180.000 đồng so với quý III.

Tốc độ tăng thu nhập đạt 2,5%, gần gấp đôi so với 1,4% quý IV/2022 - thời điểm đại dịch vừa chấm dứt. Lý do là những tháng cuối năm, doanh nghiệp tăng tốc sản xuất kinh doanh, đơn hàng cải thiện đẩy mức thu nhập của người lao động cao hơn so với trước.

Mặt bằng thu nhập quý IV/2023 của lao động tất cả các vùng kinh tế đều tăng. Mức tăng nhanh nhất là Đồng bằng sông Hồng, đạt 8,7 triệu đồng mỗi tháng (tăng 3,5%).

Đông Nam Bộ là khu vực ghi nhận mức tăng trưởng thu nhập thấp nhất, khoảng 2,3%, đạt 9 triệu đồng mỗi tháng. So với cùng kỳ năm 2022, mức tăng thu nhập lao động một số tỉnh thành có nhiều khu công nghiệp, chế xuất, khá thấp, như Đồng Nai 8,9 triệu đồng (tăng 1,6%); TP HCM 9,4 triệu đồng (1,9%). Ngược lại, một số địa phương lại có mức tăng trưởng khá, như Bình Dương 9,5 triệu đồng (tăng 6,4%); Vũng Tàu 8,7 triệu đồng (12,8%).

Dù ghi nhận thu nhập tăng chậm so với các vùng khác, song Đông Nam Bộ không còn dẫn đầu về tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động. Riêng tỷ lệ thất nghiệp tại TP HCM giảm còn 2,91% do nhiều doanh nghiệp tìm kiếm lại đơn hàng, mở rộng sản xuất, nên có nhu cầu tuyển dụng hàng nghìn lao động. Thành phố đồng thời tổ chức nhiều phiên giao dịch việc làm trực tiếp lẫn trực tuyến để kết nối lao động và doanh nghiệp.

Giờ vào ca của công nhân may tại TP HCM, tháng 11/2023. Ảnh: Thanh Tùng

Các địa phương tăng kết nối giao dịch việc làm giúp cải thiện số lao động có việc làm, đạt 51,3 triệu người, tăng 130.000 người so với quý III/2023. Tính chung cả năm 2023, lao động có việc làm ước đạt 51,3 triệu người, tăng 683.000 người so với năm 2022.

Số người nghỉ giãn việc, mất việc những tháng cuối năm tiếp tục giảm so với quý III. Trong đó, lao động mất việc còn 85.000 người, giảm gần 33.000 người; người nghỉ giãn việc còn 77.800 người, giảm hơn 187.000 người so với quý III.

Theo báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH), năm 2023, nhìn chung trong bối cảnh thế giới có nhiều thách thức, nền kinh tế Việt Nam vẫn có nhiều điểm tích cực, bức tranh xã hội có nhiều nét tươi sáng, khả quan, đời sống của người dân được cải thiện, các chính sách an sinh xã hội được đảm bảo.

Báo cáo tổng kết công tác năm 2023, Bộ LĐ-TB&XH nhìn nhận, cùng với sự phục hồi và phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế, thị trường lao động tiếp tục được phục hồi, lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập của người lao động đều tăng so với năm 2022.

Cụ thể, năm 2023, thu nhập bình quân của lao động Việt Nam đạt 7,1 triệu đồng mỗi tháng, tăng 459.000 đồng (6,9%) so với cùng kỳ 2022.

Các địa phương tăng kết nối giao dịch việc làm giúp cải thiện số lao động có việc làm, đạt 51,3 triệu người, tăng 130.000 người so với quý III/2023. Tính chung cả năm 2023, lao động có việc làm ước đạt 51,3 triệu người, tăng 683.000 người so với năm 2022.

Mặc dù vậy, Bộ LĐ-TB&XH cũng thừa nhận, số người lao động đang làm việc có xu hướng tăng, nhưng thị trường lao động chưa có sự cải thiện về chất lượng lao động, khi số lao động làm các công việc bấp bênh, thiếu tính ổn định vẫn chiếm tỷ trọng lớn.

Thị trường lao động Việt Nam vẫn có hiện tượng mất cân đối cung - cầu lao động cục bộ và có sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền, khu vực, ngành nghề kinh tế; cơ chế kết nối cung - cầu và tự cân bằng của thị trường còn yếu.

Số người nghỉ giãn việc, mất việc những tháng cuối năm tiếp tục giảm so với quý III/2023. Trong đó, lao động mất việc còn 85.000 người, giảm gần 33.000 người; người nghỉ giãn việc còn 77.800 người, giảm hơn 187.000 người so với quý III/2023.

Theo Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung, năm 2024 dự báo tình hình thế giới vẫn còn diễn biến phức tạp; kinh tế tiếp tục còn đối mặt với khó khăn thách thức. Vì thế, ngành Lao động sẽ tập trung triển khai tốt các chính sách ổn định thị trường lao động, tạo công ăn việc làm.

Thu nhập bình quân của lao động quý 1/2024 là 7,6 triệu đồng/tháng, tăng 301.000 đồng so với quý 4/2023 và tăng 549.000 đồng so với cùng kỳ năm 2023.

Theo Tổng cục Thống kê, tình hình lao động, việc làm quý 1/2024 đã quay trở lại theo xu hướng phát triển bình thường như thời kỳ trước dịch Covid-19. Tình hình đời sống dân cư trong quý 1 năm nay được cải thiện hơn.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý 1/2024 ước tính là 52,4 triệu người, giảm 137.400 người so với quý trước và tăng 175.800 người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý 1/2024 là 27,8%.

Lao động có việc làm quý 1/2024 ước tính là 51,3 triệu người, giảm 127.000 người so với quý trước và tăng 174.100 người so với cùng kỳ năm trước.

Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý 1/2024 là 2,03% (khu vực thành thị là 1,20%, khu vực nông thôn là 2,58%); tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý 1/2024 là 2,24% (khu vực thành thị là 2,64%; khu vực nông thôn là 1,99%); tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15 - 24 tuổi) quý 1/2024 là 7,99%.

Thu nhập bình quân của lao động quý 1/2024 là 7,6 triệu đồng/tháng, tăng 301.000 đồng so với quý 4/2023 và tăng 549.000 đồng so với cùng kỳ năm 2023.

Tình hình đời sống dân cư trong quý 1 năm nay được cải thiện hơn. Theo kết quả khảo sát mức sống dân cư 2024, thu nhập bình quân đầu người quý 1/2024 ước đạt 5,2 triệu đồng/tháng, tăng khoảng 8% so với quý trước và tăng 10% so với cùng kỳ năm 2023.

Theo báo cáo từ địa phương, tính đến ngày 19.3.2024, số tiền hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội là 8.100 tỉ đồng; hộ nghèo, hộ cận nghèo là hơn 2.400 tỉ đồng; người có công, thân nhân người có công với cách mạng là 9.200 tỉ đồng; hỗ trợ đột xuất, bất thường phát sinh tại địa phương là gần 26,8 tỉ đồng.